Kính thưa các thầy cô giáo cùng tất cả các em HS thân mến!
Hôm nay cô đại diện cho BGH nhà trường chia sẻ với các em về chủ đề:
BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Vậy các em có biết bình đẳng giới có nghĩa là gì không?
Theo Liên hợp quốc, bình đẳng giới có nghĩa là phụ nữ và đàn ông được hưởng những điều kiện như nhau để thực hiện đầy đủ quyền con người và có cơ hội đóng góp, thụ hưởng những thành quả phát triển của xã hội nói chung các em ạ.
Tại Mỹ, các tổ chức xã hội phải mất hơn 70 năm (từ năm 1848 cho đến năm 1920) để đấu tranh và tạo cho phụ nữ một vài quyền cơ bản như: Quyền được bảo hộ; quyền bình đẳng cho phụ nữ ; cải thiện điều kiện sống, mức lương làm việc và quyền bầu cử tại Mỹ.
Thế nhưng, ở nhiều
nước khác, những bất bình đẳng giới vẫn còn tiếp diễn.Theo thống kê, có 77% đàn
ông trong giữ vai trò là lực lượng lao động chính. Trong khi đó phụ nữ chỉ
chiếm khoảng 50% hoặc chưa tới số đó, 62 triệu bé gái bị từ chối quyền học hành
trên toàn thế giới. Hàng năm, có tới 15 triệu trẻ em gái dưới 18 tuổi bị ép tảo
hôn và hôn nhân sắp đặt sẵn của gia đình. Cứ 5 nạn nhân của nạn buôn người
thì có tới 4 là nữ. Có ít nhất 1000 vụ giết phụ nữ và bé gái vì danh dự gia
đình xảy ra hằng năm ở Ấn Độ và Pakistan. Tại Mỹ, cứ mỗi 15 giây trôi qua sẽ có
một người phụ nữ bị chồng hoặc bạn trai đánh đập,...
Còn tại việt Nam,
trong xã hội phong kiến tư tưởng trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào gốc rễ của
mọi người đó là: sinh ra em trai thì mừng, quý trọng, còn sinh ra em gái thì
không quý trọng, không mừng; người phụ nữ sinh ra con trai được quý
trọng hơn phụ nữ chỉ sinh được con gái; quyền hành của anh trai trưởng trong
gia đình rất lớn; ngai vàng của các triều đại chỉ truyền cho con trai;
quyền thừa kế gia sản của
cha mẹ chỉ dành cho con trai, còn con gái không được thừa kế hoặc chỉ được thừa
kế các tài sản nhỏ; việc truyền nghề tại các làng nghề thường không truyền cho
con gái mà truyền cho con dâu (vợ của con trai); người con trai được học hành
để thi cử, tiến thân bằng theo con đường quan lộ nhưng người phụ nữ thì chỉ
quanh quẩn với việc nhà; con trai được phép lấy rất nhiều vợ và có quyền sủng
hạnh bất cứ người nào nếu muốn trong khi phụ nữ phải chịu cảnh chồng chung mà
không có quyền được lên tiếng.
Nhất nam viết hữu,
thập nữ viết vô: với ý nghĩa là "có một con trai thì vẫn là
có, nhưng có mười con gái thì vẫn là không có". Theo đó, các
gia đình hay dòng họ có tư tưởng coi trọng việc sinh con trai. Bởi con cái theo
họ cha chứ không theo họ mẹ, nên nếu không có con trai mà chỉ có con gái thì
các cháu chắt sẽ theo họ ngoại, còn dòng họ của gia đình sẽ bị tuyệt tự và khi bố mẹ hoặc ông bà
chết đi sẽ không có người và nơi thờ cúng. Thế nên phần lớn các gia đình hiện
nay vẫn muốn sinh cho được con trai.
Đàn ông nông nổi giếng
khơi, đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu: ý nói nam giới tư duy kém thì
vẫn sâu sắc hơn nếu so với người phụ nữ tư duy tốt.
Trai tay không chẳng
ăn mày vợ, gái trăm vạn cũng thể nhờ chồng: nhấn mạnh tài sản dù là hai vợ
chồng làm ra hay của người chồng hoặc người vợ làm ra, thì người chồng cũng
được coi là công lớn hơn
Trai năm thê bảy
thiếp, gái chính chuyên một chồng: ý nói đàn ông nếu muốn có thể có
rất nhiều người vợ hầu hạ nhưng đàn bà dù thế nào đi nữa cũng phải chung thủy
với chồng.
Những người thế hệ
trước cổ hủ, luôn cho rằng con trai phải làm việc lớn. Việc bếp núc, dọn dẹp,
rửa bát là của con gái, con dâu. Con trai có thể ngủ dậy muộn nhưng luôn bắt
con gái, con dâu phải dậy sớm dù là ngày nghỉ cuối tuần. Cả hai vợ chồng đều
kiếm tiền, đều tự chủ kinh tế nhưng việc nhà, nội trợ, chăm con luôn mặc định
là phụ nữ phải làm. Không biết bao giờ mới thay đổi được tư tưởng đó. Phụ nữ và
trẻ em gái vẫn thiệt thòi hơn nam giới và trẻ em trai trong một số lĩnh vực,
tuy nhiên thời gian phụ nữ dành cho việc nhà lại gấp đôi nam giới, đây là những
công việc không được thù lao. Do đó, họ không có thời gian để tham gia vào các
hoạt động vui chơi giải trí, văn hoá, xã hội và tiếp tục nâng cao trình độ học
vấn. Đặc biệt là phụ nữ ở các vùng nông thôn, các gia đình nghèo và các dân tộc
thiểu số, vẫn có nhiều khả năng bị suy yếu sức khỏe hơn nam giới. Ngoài ra, họ
vẫn còn gặp nhiều trở ngại hơn đàn ông trong việc tiếp cận với các nguồn tín
dụng, đặc biệt vì phụ nữ thường không có tài sản thế chấp như đất đai. Mặc dù
luật đất đai ở Việt Nam không phân biệt đối xử với phụ nữ, song những tập quán
phổ biến làm cho họ bị yếu thế hơn, bởi quyền sử dụng đất thường chỉ đứng tên
người chồng. Ngoài những những thông tin trong báo cáo trên, rõ ràng trên thực
tế người phụ nữ vẫn gặp nhiều trở ngại hơn so với nam giới trong việc tham gia
vào các công việc cũng như các hoạt động xã hội. Đặc biệt tình trạng bạo lực
gia đình, bạo lực giới vẫn đang tồn tại ở nhiều nơi (theo báo cáo của UNFP).
Hiện nay nền văn minh
nhân loại đang hướng tới bình đẳng nam nữ với
sự đề cao quyền bình đẳng trong xã hội của nữ giới tương đương nam giới. Tuy
nhiên, những đặc điểm tự nhiên về giới tính được hình thành qua hàng triệu
năm tiến hóa thì không
thể thay đổi
Phụ nữ đến một độ tuổi
nhất định sẽ có tâm lý muốn chuyển hướng tập trung sang xây dựng gia đình và
nuôi dạy con cái. Chức năng sinh học của phụ nữ bao gồm việc sinh nở và chu kỳ
kinh nguyệt cũng ảnh hưởng nhiều đến sự tập trung trong công việc.
Nam giới có xu hướng
hành động nhanh chóng, quyết đoán, trong khi phụ nữ có xu hướng thụ động, bị
cảm xúc chi phối.
Phụ nữ không yếu hơn
nam giới về thể chất mà bởi vì trong hàng triệu năm tiến hóa phụ nữ không được
thực hiện nhiệm vụ yêu cầu cao về thể chất như nam giới (phụ nữ hái lượm, nam
giới săn thú và chiến đấu bảo vệ bộ lạc) vì họ bị bắt ở nhà chăm sóc gia đình.
Chức năng não: phụ nữ
nói nhiều hơn, trong khi nam giới được định hướng nhiều hơn cho hành động. Nam
giới học toán (tư duy logic học) tốt hơn, còn phụ nữ tư duy ngôn ngữ
tốt hơn (do họ nói nhiều hơn). Tuy nhiên khi sáng tác văn học, vốn cần kết hợp
tính ngôn ngữ với tính logic thì nam giới vẫn vượt trội hơn (ví dụ: trong
28 giải Nobel văn học được
trao trong giai đoạn 1990-2018, có 21 người là nam và chỉ có bảy người là nữ).
Phụ nữ (lạc hậu)
thường có xu hướng tìm kiếm một người đàn ông mạnh mẽ để đạt được sự bảo
vệ. Phụ nữ thường được cho là có tinh thần đối mặt thử thách cao hơn nam
giới
Một trong những lí do
quan trọng khác nữa là vì một phần phụ nữ nghĩ rằng họ không bằng nam giới. Ở
châu Á thường con sẽ mang họ cha nên xảy ra tình trạng mất cân bằng giới tính
rất nặng nề.
Bình đẳng giới không
chỉ là để giải phóng phụ nữ, mà còn là giải phóng đàn ông. Khi quá đề cao nam
giới và hạ thấp nữ giới thì không chỉ có nữ giới bị ảnh hưởng mà nam giới cũng
bị ảnh hưởng theo. Chẳng hạn như mọi trách nhiệm gia tộc, dòng họ đều đè lên
đôi vai người con trai, quan niệm nam giới phải mạnh mẽ, không được khóc, không
được thể hiện cảm xúc là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tuổi thọ nam
ngắn hơn. Rất nhiều nam giới bị rối loạn tâm lý nhưng không dám đi khám hay
chữa hoặc tìm đến sự giúp đỡ vì họ sợ bị dị nghị là “yếu ớt” hay “thiếu nam
tính”. Chưa kể, nếu họ có theo đuổi các ngành nghệ thuật thì sẽ bị miệt thị và
nói là “yếu đuối”, “đàn bà”, “gay”…
Hiện tại, trên thế
giới có rất nhiều phụ nữ là những nhà nghiên cứu khoa học hàng đầu, có nhiều
người thậm chí đã được giải Nobel về Sinh học, Vật lý, Hóa học. Tại các nước
phát triển ở Bắc Âu, hay Canada, Singapore,…
Một số nghiên cứu còn
cho rằng, bình đẳng giới giúp thúc đẩy phát triển kinh tế, vì khi cho phụ nữ cơ
hội như nam giới, họ sẽ có khả năng giúp đỡ và san sẻ công việc cho nhau nhiều
hơn.
Marie Curie nữ bác học
vĩ đại của Ba Lan. Bà là người phụ nữ đầu tiên nhận giải Nobel và là phụ nữ duy
nhất (một trong hai người) nhận được hai giải Nobel danh giá trong hai lĩnh vự
khác nhau là Vật lí và Hóa học.
Maryam Mirzakhani: ''Nữ hoàng toán
học'' người Iran. Cô là người phụ nữ đầu tiên nhận giải Fields cao quý cho các
nhà toán học xuất sắc dưới 40 tuổi.
Lise Meitner sinh ra ở Áo là một
thiên tài về vật lý hạt nhân. Bà đã tham gia vào các nghiên cứu phát
hiện sự phân hạch hạt nhân và phát minh ra bom nguyên tử.
Bà đã được thế giới khoa học vinh danh bằng cách đặt tên một nguyên tố mang
tên Meitnerium.
Ở Việt Nam có rất
nhiều người phụ nữ thành công trên các lĩnh vực xã hội như:
Bà Nguyễn Thị Kim
Ngân - Ủy viên bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam; Chủ tịch Quốc hội Việt Nam
Bà
Tòng Thị Phóng - Ủy viên bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt
Nam; Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị Phương
Thảo- Chủ tịch Sovico Holding, Tổng giám đốc Vietjet Air.
Bà Tạ Bích Loan -
Nhà báo, trưởng ban VTV6
Các em là HS các em
phải nhận thức được việc bình đẳng giới là rất quan trọng, giúp xã hội văn
minh, bình đẳng. Nam và nữ đều có vai trò, vị trí nhất định trong gia đình cũng
như trong xã hội. Các em về chia sẽ với bố mẹ những suy nghĩ của mình về bình đẳng
giới, khuyên bố mẹ và những người xung quanh k có thái độ trọng nam khinh nữ,
cố đẻ cho có con trai, bởi con trai con gái đều quý như nhau,..
2. Khi các em hiểu về
bình đẳng giới rồi các em cần nhận biết hơn về bản thân mình đẻ luôn sống khỏe
mạnh, hạnh phúc và an toàn qua giới tính của chính mình. Sau đây cô sẽ giúp các
em hiểu thêm về giới tính nhé!
2.1. Khái niệm: Giới tính là gì?
Có
thể hiểu một cách khái quát, ngắn gọn giới tính là tất cả những đặc điểm riêng
biệt tạo nên sự khác nhau giữa nam và nữ.
2.2. Nguồn gốc của
giới tính:
Giới tính được quy định từ hai nguồn gốc:
nguồn gốc sinh học và nguồn gốc xã hội.
-
Nguồn gốc sinh học của con người trước hết do tế bào sinh sản quy định.
-
Nguồn gốc xã hội ảnh hưởng tới giới tính của con người ở nhiều mặt. Phong tục
tập quán ở từng nước đòi hỏi ở mỗi giới những phẩm chất và tác phong khác nhau
phù hợp với giới tính của mình.
Ví
dụ như xã hội Việt Nam đòi hỏi ở người con gái tính dịu dàng, hiền hậu, tính
đảm đang, biết giữ gìn phẩm hạnh, có ý tứ,…. Những người con trai phải thể hiện
tính cương quyết, thái độ đàng hoàng, đĩnh đạc. Hoặc như trong quan hệ nam nữ,
xã hội ta đòi hỏi sự cư xử đúng mực giữa nam và nữ, thể hiện trong tác phong,
tư thế hàng ngày, ở một khoảng cách nhất định trong quan hệ giao tiếp giữa nam
và nữ.
2.3. Những biểu hiện
của sự khác biệt giới tính.
a. Những sự khác biệt về
sinh học:
-
Bộ xương của nữ thường nhỏ hơn nam, xương chậu của nữ thường rộng và thấp,
xương chân tay ngắn hơn.
-
Cấu tạo và chức năng của hệ sinh dục của nam và nữ hoàn toàn khác nhau. Đây là
sự khác biệt quan trọng nhất, quy định sự tồn tại của hai giới về mặt sinh học.
b. Những sự khác biệt về
tâm lý:
-
Về hứng thú: Học sinh trai thích học tập thể dục, thể thao hơn còn học sinh gái
thường thích những trò chơi nhẹ nhàng hơn, không ồn ào.
-
Về tình cảm: Phụ nữ dễ xúc động hơn nam, còn nam giới dễ chế ngự cảm xúc của
mình hơn.
-
Về tính cách: Phụ nữ thường cẩn thận, tỷ mỉ, nhẫn nại hơn nam giới
-
Về năng lực: Phụ nữ thể hiện tính khéo léo, nhạy cảm còn nam giới nổi trội hơn
trong các phản ứng.
2.4. Vai trò của giới
tính.
-
Giới tạo nên những cảm xúc đặc biệt khi có sự giao tiếp đặc biệt giữa hai người
khác giới, làm cho con người trở nên ý tứ, tế nhị, duyên dáng hơn hoặc thận
trọng hơn trong quan hệ nam nữ và lịch sự hơn trong giao tiếp
-
Giới tính cũng chi phối những hành vi, cử chỉ, tư thế, tác phong, nếp sống.
-
Giới tính làm cho quan hệ giao tiếp giữa hai người khác giới khác hẳn quan hệ
giao tiếp giữa hai người cùng giới, làm cho giữa nam và nữ có những “khoảng
cách” nhất định.
Trong chương trình dạy học trong
nhà trường có môn Khoa học lớp 5: Giáo dục giới tính thông qua chủ điểm:
“Con người và sức khỏe” gồm 9 bài
Bài: Sự sinh
sản, học sinh cần biết tất cả mọi người đều do bố mẹ sinh ra và có
những đặc điểm giống với bố mẹ mình.
Bài: Nam
hay nữ? Ở bài học này giúp học sinh biết được những điểm khác biệt
trên cơ thể giữa nam và nữ đồng thời các em biết tôn trọng các bạn cùng giới và
khác giới, không phân biệt nam, nữ.
Bài: Cơ
thể chúng ta được hình thành như thế nào ? HS biết cơ thể
chúng ta được hình thành từ sự kết hợp giữa tinh trùng của bố và trứng của
người mẹ
Bài: Cần
làm gì để cả mẹ và em bé đều khỏe? Học sinh biết được chỉ
có phụ nữ mới có khả năng mang thai và sau quá trình mang thai em bé sẽ chào
đời từ đó nêu được những việc nên và không nên làm để chăm sóc phụ nữ mang
thai.
Bài: Từ
lúc sinh ra đến tuổi dậy thì. Học sinh nêu được các giai đoạn phát
triển của con người từ lúc mới sinh đến tuổi dậy thì. Nêu được một số thay đổi
về sinh học và mối quan hệ xã hội ở tuổi dậy thì, quan trọng là các em biết
mình đang bước đến ngưỡng cửa của tuổi dậy thì - lứa tuổi có tầm quan trọng đặc
biệt đối với cuộc đời mỗi con người.
Bài: Vệ
sinh tuổi dậy thì - đây là bài học rất quan trọng đối với các
em đặc biệt là các em học sinh ở vùng nông thôn bởi do điều kiện sống còn
khó khăn, cha mẹ các em đi làm ăn xa phải gửi con cho ông bà, dì chú nên các em
không được bố mẹ hướng dẫn cụ thể cách vệ sinh cá nhân. Có những em có bố mẹ
bên cạnh nhưng vì hiểu biết còn hạn chế nên các em nhận được rất ít sự chỉ bảo
về cách thức vệ sinh cá nhân đặc biệt là vệ sinh khi đến tuổi dậy thì. Ở bài
học này giáo viên nên chia lớp thành 2 đối tượng là nam và nữ để dễ dàng trao
đổi, hướng dẫn cặn kẽ, cụ thể các bước vệ sinh cá nhân khi các em đến tuổi dậy
thì.
Bài Phòng tránh bị xâm hại. Đây là một bài học
vô cùng quan trọng đối với các em, sau bài học học sinh cần biết:
+ Một số tình huống có thể dẫn đến
nguy cơ bị xâm hại và những điểm cần chú ý để phòng tránh bị xâm hại.
+ Rèn luyện kĩ năng ứng phó với nguy cơ bị
xâm hại.
+ Liệt kê danh sách những người có thể tin
cậy, chia sẻ tâm sự, nhờ giúp đỡ bản thân khi bị xâm hại.
Ngoài
ra các em cần nắm được một số kĩ năng tự bảo vệ, cách thức ứng phó với các nguy
cơ bị xâm hại,…
Nếu bị xâm hại, hãy nói ngay với
thầy cô và bố mẹ. Đây không phải là lỗi của mình, chúng ta không cần phải xấu
hổ, không cần sợ hãi. Nếu im lặng, chúng ta đã tự tạo oan ức cho mình, bao che
cho kẻ xấu, chúng sẽ tiếp tục thực hiện hành vi đồi bại với các bạn nhỏ khác”,
Sử dụng hộp
thư : Điều em muốn nói
Mỗi
lớp học có một hộp thư: Điều em muốn nói. Với chiếc hộp này các em
có thể gửi những thắc mắc của mình hay đơn giản chỉ là những suy nghĩ của các
em về bạn bè, về học tập,....
Hàng tháng, giáo viên chủ nhiệm sẽ
mở hộp ra và giải đáp những thắc mắc của các em, chia sẻ với các em về học tập,
về tình cảm bạn bè, gia đình,…một cách thân thiện, cởi mở, gần gũi giúp các em
cảm thấy vững tin hơn, vui vẻ hơn.